7.4.09

World Bank: Nguy cơ khủng hoảng tài chính ở Việt Nam là thấp

Trước sự giảm sút đáng kể xuất khẩu và sức cầu trong nước đang chậm lại, Ngân hàng Thế Giới dự báo khu vực các nền kinh tế đang phát triển Đông Á sẽ chỉ đạt tăng trưởng GDP thực ở mức 5,3% trong năm 2009, giảm so với 8% năm 2008 và 11.4% năm 2007.

Riêng về Việt Nam, báo cáo nêu: Nguy cơ khủng hoảng tài chính ở Việt Nam là thấp. Tác động trực tiếp của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu là không đáng kể do các ngân hàng của Việt Nam không tiếp cận với các sản phẩm “độc hại” cũng như không nằm trong quyền kiểm soát của các ngân hàng nước ngoài trong diện rủi ro cao.

Lo ngại về những vấn đề trong nước bắt nguồn từ việc cho vay đầu tư bất động sản thiếu thận trọng vào cuối 2007 đầu 2008 đang dần lắng xuống.

Hầu hết các khoản vay giải ngân trong giai đoạn bong bóng giá tài sản đều đến kỳ đáo hạn mà không cần phải tăng biên độ nợ xấu NPL (Non-performing loans).

Các ngân hàng cổ phần lớn đều tăng vốn cổ đông, duy trì mức lợi nhuận và cải thiện danh mục đầu tư. Các ngân hàng nhà nước đã xiết chặt cơ chế cho vay và thu lợi nhuận lớn thông qua việc mua lại trái phiếu bán ra bởi nhà đầu tư ngoại. Thậm chí khối ngân hàng cổ phần nhỏ và yếu hơn cũng thành công trong việc tăng vốn điều lệ lên mức tối thiểu theo quy định.

Nguy cơ khủng hoảng cán cân thanh toán thấp. Thâm hụt thương mại trong 6 tháng vừa qua vào khoảng 2.2 tỷ USD, trong khi đó các luồng FDI, ODA và kiều hối đạt 16 tỷ USD trong năm 2008. Kiều hối và các khoản giải ngân vốn ODA ổn định trong suốt năm 2008.

Giải ngân vốn ODA có khả năng giảm mạnh trong năm 2009 tuy nhiên chưa có bằng chứng xác đáng để khẳng định điều này.

Lượng kiều hối ổn định ở mức cao và không song hành với những người lao động di cư chuyển tiền về nước để hỗ trợ tiêu dùng hộ gia đình bởi vì chủ yếu là do người Việt Nam có tuổi ở nước ngoài đầu tư về nước chuẩn bị cho giai đoạn hưu trí. Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài có khả năng phải chịu ảnh hưởng của suy giảm kinh tế tại các nước công nghiệp.

Thâm hụt thương mại giảm chuyển dần sang thặng dư nhỏ. Thực tế là xuất khẩu giảm với mức sụt giá mạnh đối với hàng hóa xuất khẩu kể từ giữa năm 2008 và số lượng đơn đặt hàng thưa thớt đối với các sản phẩm may mặc, giầy dép và các sản phẩm khác cho thấy xu hướng xuất khẩu tiếp tục đi xuống.

Tuy nhiên Việt Nam có thể bị ảnh hưởng ít hơn các nước khác là do khả năng cạnh tranh tốt, thông qua việc tăng trưởng thị phần. Năm 2009 Việt Nam có thể sẽ được Hoa Kỳ cho vào danh sách hưởng ưu đãi từ Hệ thống Ưu đãi Phổ cập. Hơn nữa, nhập khẩu thậm chí đang giảm nhanh hơn xuất khẩu một phần bởi vì tỉ trọng nhập khẩu trong các sản phẩm xuất khẩu phi hàng hóa khá cao. Các công ty đầu tư nước ngoài đều là các nhà nhập khẩu ròng vì thế việc các luồng FDI chậm lại sẽ đồng nghĩa với thâm hụt thương mại giảm xuống.

Thâm hụt thương mại năm 2009 ước tính ở mức thấp hơn và các luồng vốn ngắn hạn có thể hạn chế sự biến động của tỷ giá hối đoái.

Tiền Đồng tăng giá thực tế khá mạnh trong năm 2008, ở mức 25% - cao hơn tăng trưởng GDP thực gấp 4 lần. Khả năng giảm giá thực tế đồng tiền Việt Nam trong năm 2009 là thấp, tuy nhiên chính phủ đang từng bước áp dụng một cơ chế tỉ giá linh hoạt hơn.

Chính sách tiền tệ được đưa ra đúng lúc đã giảm thiểu tác động của các cú sốc từ biến động về giá cả trên thế giới và nhu cầu xuất khẩu, mặc dù tác động đó là do may mắn nhiều hơn là thiết kế của chính chính sách.
Tỷ giá hối đoái linh hoạt hơn và các luồng vốn chững lại trong suốt năm 2008 đã khiến cho các chính sách tiền tệ trở nên hiệu quả.

Chính phủ chủ động trong việc sử dụng công cụ này thông qua việc cắt giảm lãi suất 700 điểm kể từ tháng 6 năm 2008 xuống còn 7% vào tháng 3 năm 2009.

Chính sách tài khóa sẽ đóng vai trò chính trong năm 2009.

Nhìn bề mặt, bối cải tình tình tài chính không thay đổi trong năm 2008. Tuy nhiên, tăng trưởng GDP thực năm 2008 thấp hơn so với 2007 dẫn đến khả năng chính sách tài chính bị thắt chặt.

Nền kinh tế Việt Nam đối mặt với nhu cầu yếu ớt trên thị trường toàn cầu – điều này dẫn tới sức cầu trong nước thấp đi qua việc đóng cửa các xí nghiệp và sa thải nhân công.

Tín dụng ngân hàng và bảo lãnh vay với lãi suất thấp có thể kéo lại sức cầu do đầu tư thương mại đã cạn kiệt nguồn vốn.

Tuy nhiên tín dụng ngân hàng với mức lãi suất thấp không thể khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất nếu như không có nhu cầu đối với các sản phẩm của họ. Sẽ hiệu quả hơn nếu tăng nhu cầu qua việc trực tiếp hỗ trợ các hộ gia đình và thực hiện các dự án đầu tư công. Xây dựng là ngành có khả năng bù đắp lớn nhất cho việc sụt giảm ngành sản xuất trong nước.

Ngân sách nhà nước cho năm 2009 cho thấy sẽ có thâm hụt lớn tương đương với tổng mức thâm hụt là 7% GDP. (Từ trước đến nay mức thâm hụt thường thấp hơn so với dự toán ngân sách và năm nay cũng có thể tương tự). Chính phủ cũng đã công bố gói kích cầu tài chính bao gồm trợ cấp bằng tiền mặt (một lần) cho các hộ nghèo, tăng chi hạ tầng cơ sở, giảm thuế, hỗ trợ lãi suất cho các khoản tín dụng vốn hiện hành, bảo lãnh tín dụng đối với các khoản vay giành cho doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Vũ Minh (ghi)

No comments:

Post a Comment