19.4.09

Chính sách tỷ giá như thế nào cho đúng

Khả năng cạnh tranh của xuất khẩu, trạng thái cán cân thương mại và thanh toán, dự trữ quốc gia, biến động cơ cấu sản xuất, niềm tin vào bản tệ, vào chính phủ, vào tương lai - nghĩa là các nhân tố chủ yếu đo lường sức khỏe và chi phối mạnh động lực phát triển nền kinh tế đất nước - đều phụ thuộc sâu sắc vào tỷ giá hối đoái chính thức.

Tỷ giá ổn định không phải bao giờ cũng giúp ổn định kinh tế

Bảo đảm và duy trì sự ổn định của nền kinh tế vĩ mô luôn là mục tiêu hàng đầu và tập trung của tổ hợp các chính sách kinh tế - xã hội của chính phủ, trong đó có chính sách tỷ giá.

Có thể có ổn định và tăng trưởng kinh tế nhất định trong điều kiện tỷ giá không ổn định do sự chi phối của các nhân tố thị trường, do tương quan giá trị giữa các đồng tiền liên quan đến đồng bản tệ, do chính sách ưu tiên cho mục tiêu trước mắt nào đó của chính phủ...

Vị trí đặt quảng cáoSong, điều ngược lại không phải bao giờ cũng đúng. Thực tiễn đã cho thấy ổn định tỷ giá không phải bao giờ cũng giúp ổn định kinh tế (đặc biệt là việc cố định tỷ giá một cách khiên cưỡng...).

Đương nhiên, việc ổn định tỷ giá phù hợp với giá trị thực tế của nó sẽ là điều kiện lý tưởng để góp phần ổn định nền kinh tế của một nước. Song, trong đa số trường hợp, tỷ giá chịu tác động khách quan của các nhân tố thị trường luôn biến động vượt ra khỏi tầm kiểm soát, khống chế của các nhân tố chủ quan của các chính phủ, dù quốc gia đó có lực lượng dự trữ tài chính mạnh đến đâu và cơ chế điều tiết thị trường hoàn thiện nhường nào.

Đồng thời, thực tế cũng cho thấy, việc quy định tỷ giá chính thức thường có xu hướng thoát ly giá trị thực tế của đồng bản tệ bởi sự phản ứng chậm trễ về chính sách, cơ chế điều tiết, sự bảo thủ hoặc thiên lệch trong ưu tiên một vài mục tiêu kinh tế - xã hội trước mắt nào đó.

Thành thử, dưới bề mặt của sự ổn định tỷ giá luôn có sự tích tụ lớn dần các vòng xoáy ngầm của các xung lực phát sinh từ sự định giá quá cao hoặc quá thấp đồng bản tệ; các vòng xoáy này sẽ tăng lên theo thời gian và đến lúc nào đó sẽ bộc phát và đủ sức phá vỡ sự ổn định của nền kinh tế và do đó, phá vỡ sự ổn định của chính tỷ giá với tư cách là mục tiêu mà chính sách tỷ giá hướng tới.

Định giá cao đồng bản tệ: giảm sức cạnh tranh hàng xuất khẩu

Khi định giá cao đồng bản tệ, các nước thường kỳ vọng vào cái lợi sẽ thu được nhờ làm giảm giá hàng nhập khẩu để giảm chi phí sản xuất, giảm sức ép lạm phát và giảm được chi phí dịch vụ nợ nước ngoài...

Tuy nhiên, việc đồng bản tệ được định giá quá cao và kéo dài sẽ trở thành nguyên nhân quan trọng làm giảm sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu, dẫn đến hạn chế xuất khẩu, kích thích nhập khẩu, làm tăng nhập siêu.

Hơn nữa, khi định giá bản tệ cao, thường kéo theo sự gia tăng lãi suất tín dụng trong nước, cũng như khoảng cách chênh lệch lớn giữa lãi suất trong nước và nước ngoài, kích thích vay nợ nước ngoài dễ dãi, nhất là các khoản vay thương mại ngắn hạn theo lãi suất cao.

Hậu quả nặng nề và lâu dài hơn cả chính là ở chỗ, việc định giá quá cao và kéo dài đồng bản tệ sẽ làm triệt tiêu các động lực phát triển sản xuất trong nước, trước hết là sản xuất và kinh doanh xuất khẩu, làm tăng buôn lậu và tham nhũng, kích thích sử dụng lãng phí ngoại tệ, không coi trọng các nguồn lực trong nước, kích thích nền kinh tế “bong bóng” phát triển, làm gia tăng mức thâm hụt cán cân thương mại, cán cân thanh toán tài khoản vãng lai và hao hụt nhanh chóng nguồn dự trữ quốc gia để giữ giá bản tệ.

Định giá thấp đồng bản tệ: tăng sức ép lạm phát

Ngược lại, khi định giá quá thấp đồng bản tệ (dù do sự chủ động của chính phủ với hy vọng kích thích xuất khẩu, hoặc do sự bị động gắn với việc buộc phải gia tăng phát hành bản tệ bù đắp thâm hụt ngân sách nhà nước hay để mua ngoại tệ trên thị trường nội địa cho nhu cầu trả nợ của chính phủ...) thì tác hại cũng không kém: sức ép lạm phát gia tăng, chi phí dịch vụ nợ bằng ngoại tệ tăng nhanh.

Ngoài ra, giá hàng nhập khẩu cũng bị đẩy lên cùng chiều với tốc độ mất giá bản tệ, làm thu hẹp nguồn vốn chảy vào và bẻ ghi dòng vốn đầu tư chảy ra nước ngoài, làm tổn hại đời sống nhân dân... từ đó làm tăng nguy cơ phá sản các doanh nghiệp, làm tăng nạn thất nghiệp và sự bất ổn của xã hội.

Ngoài ra, nếu không cân nhắc đến cơ cấu nợ của nhà nước (bằng bản tệ và ngoại tệ) thì việc điều chỉnh tỷ giá bản tệ còn có thể dẫn đến làm tăng thiệt hại từ các khoản nợ bằng ngoại tệ của nhà nước, do phải trả nợ bằng những đồng ngoại tệ trở nên đắt đỏ hơn so với khi vay.

Hơn nữa, do phá giá bản tệ thường dẫn đến tăng giá hàng nội địa và giảm giá trị tài sản tính bằng bản tệ, tác dụng xấu tới cán cân vãng lai, để tránh hiện tượng chảy máu tư bản, người ta thường phải tăng lãi suất sau khi tăng tỷ giá. Việc tăng lãi suất dẫn đến hậu quả giảm khả năng đầu tư trong nước, giá hàng nội địa tăng, kém cạnh tranh hơn so với hàng nhập khẩu.

Việc phá giá bản tệ còn làm giảm lương, thu nhập và mức sống của người lao động. Việc kéo dài mức sống thực tế nghèo đói của người lao động sẽ làm giảm cầu, thu hẹp thị trường tiêu thụ, giảm sản xuất.

Nếu tăng lương danh nghĩa để bù đắp thiệt hại về thu nhập này sẽ lại đẩy giá tăng, lạm phát và khủng hoảng kinh tế. Chính tình thế lưỡng nan này khẳng định tính chất “con dao hai lưỡi” của biện pháp phá giá bản tệ và sự cần thiết phải thận trọng khi sử dụng nó.

Tỷ giá thả nổi - dễ gây mất ổn định

Tỷ giá thả nổi là công cụ của nền kinh tế thị trường phát triển, tự nó là một nhân tố gây mất ổn định mạnh trong bối cảnh nền kinh tế chưa phát triển đầy đủ các quan hệ thị trường. Đây chính là tình cảnh “trên đe dưới búa” lưỡng nan của đa số các nước đang phát triển trong khi lựa chọn chính sách tỷ giá.

Việc nhấn mạnh một chiều các lợi ích của việc ấn định giá trị đồng bản tệ quá cao hoặc quá thấp, cũng như của việc thả nổi hoàn toàn tỷ giá, là chỉ tính đến những lợi ích ngắn hạn và chứa đựng những hiểm họa sẽ bùng nổ trong tương lai, khiến nền kinh tế phải trả giá đắt hơn so với những lợi ích cục bộ thu được.

Cái giá phải trả càng cao nếu mức độ chênh lệch giữa giá trị thực tế và giá trị “ảo” của đồng bản tệ càng lớn và được duy trì càng lâu, cũng như nếu cơ chế và các thể chế thị trường trong nước càng sơ khai và thiếu đồng bộ... Hơn nữa, sự đầu cơ quốc tế sẽ làm cho cái giá phải trả này càng trở nên khổng lồ và khó lường trước được.

Lựa chọn chính sách tỷ giá nào?

Không có một cơ chế tỷ giá hối đoái nào là tối ưu trong mọi trường hợp. Nhưng thực tế cho thấy, giữ được tỷ giá ổn định dựa trên việc tìm kiếm thường xuyên sự cân đối tối ưu giữa tính chất tự thân thị trường với sự can thiệp nhà nước là điều kiện tốt cho tăng trưởng kinh tế trong từng thời kỳ nhất định.

Vì vậy, ngày càng có nhiều nước lựa chọn một chính sách tỷ giá có tính mềm dẻo, linh hoạt một cách thận trọng, thích ứng với những biến động dựa trên quan hệ cung cầu và có sự điều tiết tích cực của nhà nước. Có hai phương thức xác định xu hướng và mức vận động của tỷ giá danh nghĩa ổn định thường được dùng là:

- Xác định một hoặc một số ngoại tệ mạnh mà tỷ giá bản tệ biến động gắn với chúng. Đó có thể là ngoại tệ thường dùng trong thanh toán quốc tế, hoặc đồng tiền của nước bạn hàng chính.

Phương thức này đặt cược “số phận” bản tệ vào các nhân tố bên ngoài, và do đó dễ gây ra tình trạng “lạm phát hoặc thiểu phát nhập khẩu”, đột biến giá cả ngoài tầm quản lý của chính phủ, tăng tính bị động của chính sách vĩ mô.

- Định kỳ điều chỉnh tỷ giá bản tệ. Ngân hàng Trung ương dự kiến trước mức điều chỉnh giá bản tệ trong khoảng thời gian xác định trên cơ sở cân nhắc và dự báo cung - cầu về ngoại tệ, tình hình kinh tế - xã hội cụ thể trong, ngoài nước và xu thế vận động của chúng.

Tuy vậy, nếu khoảng cách của các chu kỳ điều chỉnh tỷ giá không được cân nhắc kỹ sẽ gây ra tình trạng hỗn loạn, bất an trong tâm lý và hoạt động kinh tế; sẽ làm gia tăng nạn đầu cơ hoặc thái độ “nghe ngóng” chờ thời của các chủ đầu tư (đặc biệt là khi chính phủ tạo ra “quy luật” chỉ điều chỉnh tỷ giá một chiều - tức chỉ tăng hay giảm).

Hơn nữa, nếu “chốt” tỷ giá quá lâu, hoặc mức điều chỉnh tỷ giá bản tệ nếu thái quá sẽ gây tình trạng tăng hoặc giảm quá mức giá trị bản tệ, từ đó kéo theo các hệ quả của việc định giá quá cao hoặc quá thấp đồng bản tệ như đã phân tích ở trên...

Theo TS.Nguyễn Minh Phong
TBKTSG

No comments:

Post a Comment