26.4.07

Các bí quyết cơ bản trong đầu tư cổ phiếu?

Các bí quyết cơ bản trong đầu tư cổ phiếu?

Hãy tưởng tượng bạn đang sở hữu một cỗ máy in tiền, và nó tự động quay vòng sản sinh tiền mặt cho bạn hết ngày này qua ngày khác. Hơn nữa, không chỉ một mình nó tự tái sản sinh ra tiền, mà nó lại làm nảy sinh ra một chiếc máy in tiền nhỏ hơn – và cứ như thế, chúng làm việc không biết miệt mỏi và nghỉ ngơi, suốt 24 giờ trong ngày, suốt 7 ngày trong tuần để kiếm về thật nhiều tiền cho bạn.

Nghe đến đây, bạn có thấy thật là nực cười không? Hay đó là một điều phi lý? Có một cách làm được điều này. Đó là đầu tư vào cổ phiếu được trả cổ tức và lại tiếp tục tái đầu tư cổ tức thu được.

Thật là khó tin, nhưng đấy là sự thật. Tại sao vậy? Nếu như bạn có tiền, bạn đem gửi tiết kiệm. Tốt thôi, chỉ với lãi suất 7,5%/năm, nhưng là cách đầu tư đơn giản nhất và an toàn nhất. Hoặc bạn quyết định đầu tư số tiền mà bạn có để mua vàng. Song tiền mặt, hay vàng đều không tự sinh ra lợi nhuận. Nếu 10 kg vàng mà bạn có, dấu nó thật kỹ trong 20 năm, đến khi mang ra nó vẫn không đem lại thêm một đồng lợi nhuận nào cho bạn (thậm chí, bạn phải tốn chi phí để cất giữ). Dĩ nhiên, trên thực tế giá giao dịch của chúng có thể tăng. Nhưng đó là tăng ảo. Giá giao dịch của chúng tăng thực chất là vì lạm phát. Về lâu dài, sau khi đã điều chỉnh theo lạm phát, thì giá trị thực sự của chúng có thể còn giảm đi nữa.

Trong khi đó, nếu bạn đầu tư vào cổ phiếu. Ví dụ, nếu bạn sở hữu một cổ phiếu của một công ty X có nghĩa là bạn đã sở hữu một phần của công ty đó. Nếu công ty đó có 100 triệu cổ phiếu và bạn nắm giữ một cổ phiếu, có nghĩa bạn đang sở hữu 1/100 triệu công ty X. Nếu năm nay, công ty X này có được lợi nhuận ròng là 500 tỷ đô-la, thì phần lợi nhuận của bạn trong đó sẽ là năm ngàn đô-la (1/100 triệu của 500 tỷ đô-la). Điều này giải thích vì sao cổ phiếu luôn tăng giá về lâu dài. Vì nó tự sinh ra thêm lợi nhuận theo thời gian, nên giá của nó sẽ tăng lên.

Bạn có thể tham khảo một số ví dụ sau để có thể coi đầu tư vào cổ phiếu như là có trong tay một “cỗ máy in tiền”:

- Máy in tiền số 1: Pepsi - Nếu bạn đã đầu tư 2.000 đô-la vào công ty Pepsi năm 1980 thì giá trị vốn đầu tư của bạn bây giờ nhiều hơn 150.000 đô-la. Bạn có thể chỉ bắt đầu với 80 cổ phiếu, nhưng bằng tái đầu tư cổ tức, bây giờ bạn có thể năm trong tay 2.800 cổ phiếu của Pepsi.

- Máy in tiền số 2: Phillip Morris - Nếu bạn đã đầu tư 2.000 đô la vào Phillip Morris năm 1980 thì ngày nay giá trị vốn đầu tư của bạn lên tới trên dưới 300.000 đô la. Bạn đã bắt đầu với 58 cổ phiếu, ngày nay nhờ phân chia cổ phần và tái đầu tư cổ tức, bạn có trong tay hơn 4.300 cổ phiếu của Phillip Morris.

- Máy in tiền số 3: Johnson & Johnson – 2.000 đô-la đầu tư vào Johnson & Johnson năm 1980 có thể có giá trị gần 140.000 đô-la hôm nau. Bạn đã bắt đầu với chỉ 13 cổ phiếu. Hiện nay, số cổ phiếu bạn sở hữu lên tới hơn 2.000 cổ phiếu nhờ tái đầu tư cổ tức và phân chia cổ phần.

Như vậy, chỉ với 6.000 đô-la đầu tư vào mua cổ phiếu của 3 công ty trên trong vòng hơn 25 năm, số tiền mà bạn có trong tay lên tới gần 600.000 đô-la. Đó là bạn còn chưa cần đầu tư thêm bất kể một đồng nào khác nữa.

Vậy thì nếu bây giờ, bạn có trong tay 6.000 đô-la, còn chần chừ gì nữa mà không đầu tư vào cổ phiếu để sinh ra lợi nhuận 17.000 đô-la một năm, và tự tạo cho mình một “cỗ máy in tiền”?

Để làm được điều đó, trước hết, bạn cần phải biết cách thức để tạo ra “cỗ máy in tiền”. Cách thức này dường như rất đơn giản, bao gồm hai bước:

Bước 1: Tìm ra và mua các cổ phiếu được trả cổ tức tốt nhất.

Bước 2: Tái đầu tư cổ tức đó.

Song bạn cần biết sáu điều bí mật trong đầu tư liên quan tới cổ tức sau đây, nó có thể giúp bạn kiếm được thu nhập lớn với rủi ro ít nhất:

1. Tránh đầu tư vào những cổ phiếu được trả cổ tức cao quá

Mặc dù, không phải lúc nào cũng là yếu tố quan trọng bậc nhất trong mọi quyết định đầu tư vào cổ phiếu, song mức chia cổ tức luôn được các nhà đầu tư quan tâm đặc biệt. Cổ tức là phần được chia cho mỗi cổ phiếu được trích ra từ lợi nhuận của doanh nghiệp để trả cho các cổ đông. Điều dễ thấy là các cổ phiếu có mức chia cổ tức cao luôn có mức giá giao dịch cao, nhưng điều ngược lại chưa chắc đã đúng.

Nếu mức cổ tức cao có nghĩa là mức lợi nhuận đạt được phải cao và một doanh nghiệp có thể đạt được mức lợi nhuận cao chắc chắn phải là doanh nghiệp hoạt động hiệu quả với bộ máy quản trị và điều hành có năng lực. Do đó, việc được làm chủ một phần tài sản giá trị như thế quả là quá hấp dẫn. Tuy vậy, hai cổ phiếu có mức cổ tức cao ngang nhau không có nghĩa sẽ được thị trường định giá ngang nhau.

Không thể phủ nhận sự kỳ vọng của cổ đông vào mức cổ tức cao là hoàn toàn hợp lý, song cổ tức cao không đồng nghĩa với hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp cao. Nhiều khi, cổ tức cao trên mức bình thường lại là dấu hiệu báo động của một công ty đang sắp rơi vào tình trạng suy kiệt. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra một cách rõ ràng rằng bạn sẽ kiếm được nguồn thu nhập chắc chắn hơn nếu như tránh đầu tư vào những cổ phiếu có mức cổ tức quá cao.

2. Hãy cẩn thận với những cổ phiếu đột nhiên giảm tỷ lệ cổ tức

Không phải tất cả các cổ tức cho mỗi cổ phiếu đều ngang nhau, có những cổ phiếu được trả cổ tức cao hơn. Thậm chí, ngay cả những công ty có lợi nhuận khổng lồ, cũng chứa đựng trong nó sự không công bằng đó. Nếu như cổ tức bị cắt giảm thì có thể coi là một tin tức tồi tệ. Một khi cổ tức giảm, có nghĩa là cổ phiếu đó sắp bị rớt giá.

3. Tiền mặt được coi là vua

Sự luân chuyển tiền mặt được coi là sự lành mạnh thật sự trong kinh doanh. Hãy tìm những công ty có hàng “tấn” tiền mặt luân chuyển. Thậm chí, trong giai đoạn xấu nhất, việc có nhiều tiền mặt cũng tạo ra những cơ hội. Các công ty khi cổ phiếu rớt giá, họ có thể tung tiền mặt ra để mua lại những cổ phiếu của chính mình để nâng mức giá cổ phiếu lên hay thanh toán các khoản nợ, tăng cổ tức hay đầu tư vào các hoạt động kinh doanh có thể sinh lợi nhuận khác. Đó là lý do tại sao tiền mặt là nhân tố quan trọng nhất để xác định giá trị trên thị trường.

4. Đừng tập trung vào những công ty có thu nhập mà không có sự tăng trưởng

Các công ty nếu có sự tăng trưởng kinh doanh mới thực sự lành mạnh. Vì vậy, sự luân chuyển tiền mặt cần phải đủ lớn để không chỉ trả tiền cổ tức “trong sạch”, mà còn đủ tiền để tăng trưởng và duy trì sức mạnh một cách chiến lược.

5. Đừng bỏ quên những giá trị “ẩn”

Kết quả đầu tư phụ thuộc vào cả hai yếu tố: cổ tức và giá cổ phiếu. Cổ phiếu của những công ty làm ra những sản phẩm thực và có lợi nhuận thực thường không rơi vào vị trí hàng đầu. Vì vậy, cổ tức của những cổ phiếu có thể cũng là một nguồn “giá trị ẩn” rất lớn mà bạn có thể dùng để tìm ra những cổ phiếu giá trị. Tìm ra những giá trị này bằng cách tập trung trước hết vào cổ tức có thể giúp bạn tránh rơi vào cái bẫy của những “con dao sắc” mà nhiều nhà đầu tư giá trị mắc phải.

6. Phải có quan điểm đầu tư dài hạn

Rất nhiều nhà môi giới chứng khoáng đã tư vấn đầu tư dựa trên một quan điểm rất ngắn hạn - thường tối đa trong khoảng thời gian 12 tháng. Cá nhân các nhà đầu tư nên có quan điểm ít nhất từ ba đến năm năm khi xem xét đầu tư. Càng nhiều thời gian trôi qua, bạn sẽ càng nhận ra đầy đủ sức mạnh thật sự của sự sản sinh cổ tức hay cổ tức “kép”.

Cách tốt nhất để biến những ước mơ tài chính của bạn thành hiện thực

Cổ phiếu được thanh toán cổ tức hiển nhiên là cách nhanh nhất và đáng tin cậy nhất để đạt được sự an toàn và độc lập về tài chính. Sau đây là năm lý do tại sao bạn nên yêu thích công việc đầu tư cổ phiếu sinh cổ tức ngay bây giờ:

1. Chúng đang chiếm vị trí thắng thế trên thị trường. Theo chỉ số Standard& Poor’s, trong bảy tháng đầu năm 2006, cổ phiếu được trả cổ tức tăng trở lại 4,3%, so sánh với -3,3% cho những người chơi cổ phiếu không có cổ tức.

2. Chúng có mức độ rủi ro thấp. Khi mà hầu hết các công ty thanh toán cổ tức bằng tiền mặt, các nhà đầu tư sẵn sàng đầu tư vào những cổ phiếu mà cổ tức được trả bằng cổ phiếu nhằm lợi dụng khả năng sinh lời của nó trên thị trường. Vì vậy, chúng sẽ không bao giờ bị rớt giá quá nhanh và quá thấp như các cổ phiếu không có cổ tức. Những cổ phiếu này vì thế trở thành nam châm hút hết các nhà đầu tư tìm kiếm sự an toàn.

3. Chúng kiếm ra được nhiều tiền hơn với mức thuế thấp hơn. Nhờ những thay đổi gần đây trong luật thuế thu nhập, cổ tức ở nhiều nước trên thế giới hiện được áp mức thuế 15%. So sánh với tiền lãi thu được các khoản tiền tiết kiệm tại ngân hàng, hoặc một số thu nhập bất thường khác…, thường bị chịu mức thuế thu nhập thông thường lên tới 35%, thì đây quả là một mức thuế tương đối thấp. Theo tính toán của Standard& Poor’s điều này có thể tiết kiệm cho các nhà đầu tư con số lên tới hàng trăm tỷ đô-la. Vì lý do này mà nó sẽ kéo sự đầu tư trở lại với cổ phiếu được trả cổ tức.

4. Chúng giúp bạn tránh bị gặp rủi ro như “trường hợp của Enrons” một lần nữa. Cổ tức không bao giờ nói dối. Ví dụ, trong khoảng thời gian từ năm 1997 đến 2000, “thu nhập” của Enron’s tăng đột biến lên 69%, nhưng cổ tức chỉ tăng 9%. Điều này cho thấy chắc chắn có một dấu hiệu “ám muội” nào ở đây, nhưng nhiều nhà đầu tư chứng khoán đã không nhìn ra nó, để rồi, bỗng chốc trở nên trắng tay khi công ty này tuyên bố phá sản.

5. Bằng cách tái đầu tư cổ tức, bạn kiếm ra được nhiều tiền và nhận ra sức mạnh của sự sinh sôi một cách tự động. Tái đầu tư các cổ tức nâng danh mục thu nhập từ đầu tư cổ phiếu của bạn lên bằng cách mua nhiều hơn cổ phiếu khi giá thấp và giúp bạn kiếm được nhiều lợi nhuận hơn.

Cổ tức không chỉ dành riêng cho những người về hưu. Nó dành cho tất cả những ai muốn tích lũy, cóp nhặt nhiều tài sản cho mình hơn mà mức độ rủi ro lại ít. Bạn có thấy cuộc sống sẽ buồn tẻ biết bao nếu không tự tìm cách để kiếm ra nhiều tiền để cải thiện và tận hưởng cuộc sống, thay vì chỉ ngủ và chẳng mảy may lo toan gì như những đứa trẻ? Chắc chắn bạn sẽ chẳng bao giờ lãng phí cuộc sống một cách vô nghĩa như thế!

Những bí mật ẩn giấu đằng sau cổ tức

Bong bóng chứng khoán hình thành và vỡ thế nào?

Bong bóng chứng khoán hình thành và vỡ thế nào?
22/04/2007

Thị trường chứng khoán vẫn nóng. Nhiều người lo sợ một bong bóng chứng khoán. Vậy bong bóng chứng khoán hình thành và vỡ thế nào? Các nhà kinh tế bàn cãi nhiều và không thống nhất về một mô hình được đa số chấp nhận.

G. Soros nhà kinh doanh chứng khoán nổi tiếng có triết lý riêng của mình về sự hình thành và đổ vỡ của bong bóng mà ông gọi là chuỗi boom-bust (hưng thịnh-suy sụp).

Theo lý thuyết kinh tế truyền thống, giá cổ phiếu của một công ty phản ánh những cái căn bản (fundamentals) của công ty đó. Đại loại chúng liên quan đến lĩnh vực và quy mô hoạt động, chiến lược kinh doanh, sản phẩm, khách hàng, doanh thu, lợi nhuận, đội ngũ lãnh đạo... của công ty đó, và giá cổ phiếu có thể tính được bằng cách chiết khấu dòng thu nhập dự kiến trong tương lai.

Soros coi những cái căn bản là quan trọng, song ông coi thiên kiến về những cái căn bản của những người tham gia thị trường và sự nhận biết về thiên kiến của những người khác mới là cái ảnh hưởng trực tiếp đến giá cổ phiếu, ông gọi việc tư duy của chúng ta về giá cổ phiếu ảnh hưởng đến chính giá cổ phiếu là hiện tượng phản thân (reflexivity). Thực ra hiện tượng phản thân phổ biến ở nhiều lĩnh vực khác (như bất động sản, các quá trình xã hội, chính trị, lịch sử...) song ở đây chỉ giới hạn ở lĩnh vực cổ phiếu.

Bong bóng khởi đầu với một thiên kiến thịnh hành và một xu hướng thịnh hành. Thí dụ, thiên kiến thịnh hành có thể là sự ưa thích tăng trưởng nhanh thu nhập trên cổ phần dựa vào kỳ vọng giá cổ phiếu tăng mà không chú ý nhiều đến lợi nhuận thực chia cho cổ phần (đến những cái căn bản); xu thế thịnh hành có thể là khả năng của các công ty tạo ra tăng giá nhanh cổ phiếu của mình bằng cách được cổ phần hoá theo giá "bèo", bằng trái phiếu chuyển đổi hay hứa cho quyền mua cổ phiếu với giá ưu đãi.

Ở giai đoạn đầu (1) (xem hình), xu thế còn chưa được nhận ra. Rồi đến giai đoạn tăng tốc (2), khi xu thế được nhận ra và tự tăng cường bởi thiên kiến thịnh hành. Một giai đoạn kiểm tra (3) có thể xen vào khi giá sụt.

Nếu thiên kiến và xu thế duy trì, cả hai hiện ra mạnh hơn bao giờ hết (4). Rồi đến giờ phút thử thách (5) khi thực tế không còn duy trì được kỳ vọng bị phóng đại, tiếp theo một giai đoạn chạng vạng (6) khi người ta tiếp tục cuộc chơi, mặc dù họ không còn tin vào nó, với hi vọng họ sẽ được cứu giúp do khôn hơn những kẻ khờ dại.

Cuối cùng đến một điểm giao (7) khi xu thế sụt giảm và ngay cả những kẻ khờ dại nhất cũng từ bỏ hi vọng. Điều này dẫn đến một sự gia tốc thảm khốc theo chiều ngược lại (8), thường được biết đến như một "sự sụp đổ".




Như minh hoạ ở hình trên, chuỗi boom-bust có dạng bất đối xứng, với boom kéo dài hơn bust. Đây chỉ là một mô hình, không phải mọi quá trình boom-bust theo cùng hình mẫu này. Trong thị trường tiền tệ hình mẫu đối xứng hơn, tức là bên lên và bên xuống ít nhiều thuận nghịch. Trong thực tế, các quá trình phản thân tương tác, tạo ra các hình mẫu kỳ lạ và đơn nhất. Mỗi trường hợp là khác nhau.

Các giai đoạn khác nhau có thể có biên độ và trường độ khác nhau. Quá trình phản thân tự kích có thể chẳng bao giờ khởi động được bong bóng. Trong nhiều trường hợp, cơ chế phản hồi phản thân là tự hiệu chỉnh hơn là tự tăng cường để khởi động.

Một chuỗi boom-bust đầy đủ là một ngoại lệ hơn là thường lệ, nhưng tính phản thân - bất kể tự hiệu chỉnh hay tự tăng cường - là thường lệ trong các thị trường tài chính. Tính phản thân gây ra phản hồi dương, đưa một nhân tố bất định vào thị trường, làm cho diễn biến của thị trường khó có thể tiên đoán được.

Trong lịch sử thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản và các thị trường khác đã xảy ra vô vàn những bong bóng như vậy. Vấn đề là hậu quả của sự vỡ bong bóng đến đâu, có nằm trong tầm chịu đựng của nền kinh tế hay không. Có nhiều hậu quả, cả xấu và tốt, không thể lường được trước. Liệu có các cơ chế hữu hiệu hay không để đối phó với những biến động bất thường hay không. Đấy là những vấn đề làm các nhà chức trách đau đầu.

Làm sao để tránh hay hạn chế tác hại của các bong bóng là vấn đề chính sách hóc búa. Có thể làm lạnh những cơn sốt thị trường bằng nhiều biện pháp, can thiệp hành chính một cách nóng vội, không cân nhắc thường là biện pháp tồi tệ nhất. Dùng các công cụ thị trường, nâng cao nhận thức, tạo cơ chế phòng ngừa rủi ro và biện pháp tuyên truyền, giáo dục có thể có hiệu quả lâu dài.

Tăng cung là biện pháp giảm nóng thị trường một cách hữu hiệu. Có thể ảnh hưởng đến thiên kiến bằng nâng cao nhận thức của những người tham gia, cảnh báo họ về những nguy cơ tiềm ẩn, đòi hỏi các công ty được niêm yết và các nhà môi giới chứng khoán phải cung cấp thông tin trung thực, có các quy chế rõ ràng buộc họ phải báo cáo, phải cung cấp thông tin, phải tránh xung đột lợi ích hay biểu hiện của xung đột lợi ích.

Xây dựng cơ sở hạ tầng thông tin của các sở giao dịch chứng khoán vững chắc, giám sát việc dùng đòn bẩy tài chính (dùng vốn vay) một cách chặt chẽ... là những lựa chọn khả dĩ. Song các nhà đầu tư phải tự học qua thành công và thất bại của mình, đấy là khuyến khích sát sườn nhất đối với họ.


Bài viết của TS. Nguyễn Quang A trên Lao Động cuối tuần

Tại sao Roman Abramovich trở lên giầu có?




Xem hình


Tại sao Roman Abramovich trở lên giầu có?

Trả lời: Mua lại các doanh nghiệp khó khăn và cải tổ lại

Roman Abramovich lấy tiền đâu ra để mua?

Trả lời: Ngân hàng và các quỹ đầu tư

Tôi có cơ hội làm được điều đó không?

Bạn hãy tư duy thật sâu và tự cho mình một câu trả lờ

Người giầu nhất nước Anh
không phải là công dân nước này mà là một người Nga đăng ký định cư tại
đây. Đó là tỉ phú Roman Abramovich. Mặc dù vậy, cách đây hơn 5 năm,
ngay ở nước Nga, chẳng có mấy ai biết tới tên ông.



Còn bây giờ, Roman Abramovich đã là một đại gia giàu có bậc nhất thế
giới. Là một nhà tài phiệt với rất nhiều cổ phần chi phối tại hai tập
đoàn dầu mỏ và khai thác nhôm, Roman Abramovich đã thu về những món lợi
nhuận kếch xù. Tổng tài sản của nhà tỉ phú trẻ tuổi này được ước tính
lên tới 7,2 tỉ bảng Anh, tương đương với 13 tỉ USD, gấp đến gần chục
lần tài sản của nữ hoàng Anh Elizabeth.



Sự giàu có nhanh chóng của Roman Abramovich làm tất cả mọi người kinh
ngạc. Như từ dưới đất chui lên, đột nhiên báo giới và công luận liên
tục nhắc đến tên tuổi của đại gia người Nga. Dường như tất cả ai cũng
đều tò mò muốn biết nhà tỉ phú với gương mặt trẻ thơ này đã làm giàu
kiểu gì mà nhanh thế.



Chẳng dễ gì mà biết được các bí quyết làm giàu nhanh chóng của các tỉ
phú, nhất là các tỉ phú mới nổi từ nước Nga. Khi giá trị tài sản của
Roman Abramovich được công bố đã làm rất nhiều người sững sờ ngạc
nhiên. Nhưng khi biết chi tiết tài sản đó, người ta lại càng sững sờ
trước tiềm lực tài chính, kinh tế của nhà tỉ phú này.



Ngoài rất nhiều tài sản có giá trị như biệt thự, đất đai tại London,
Tropez và West Sussex, tàu nghỉ ngoài biển, máy bay chuyên cơ đặc biệt,
Roman Abramovich còn đang chi phối tới 3 tập đoàn kinh tế quan trọng
bậc nhất của nước Nga. Roman Abramovich hiện đang sở hữu tới 80% cổ
phần của Sibneft, tập đoàn dầu mỏ lớn thứ tư thế giới.



Ông cũng đang nắm đúng một nửa số cổ phần của tập đoàn khai thác nhôm
lớn thứ nhì thế giới là Russkiy Aluminiy. Roman Abramovich đã từng là
một đại cổ đông của hãng hàng không Nga Aeroflot với 26% tổng số cổ
phần và mới đây ông đã bán đi 20%. Ngoài ra, không thể quên kể đến việc
Roman Abramovich đang là ông chủ đội bóng đá Chelsea của thành London
với giá trị đầu tư lên tới hàng trăm triệu USD.



Anh hùng gặp thời



Roman Abramovich sinh năm 1967 và là người mang trong mình dòng máu Do
Thái. Mẹ ông là người Nga, còn cha ông là người Do Thái đã định cư tại
Nga hàng trăm năm nay. Roman Abramovich sớm mồ côi cả cha lẫn mẹ. Khi
ông mới 18 tháng, bà Irina, mẹ ông bị bệnh chết. Hơn 2 năm sau, khi
Roman mới 4 tuổi, bố ông là Arkady Abramovich đã chết vì một tai nạn
lao động và ông được người chú nuôi dưỡng.



Có thể nói Abramovich đã có một cuộc sống hết sức bình thường, thậm chí
rất vất vả, ngay từ bé đã phải đi làm kiếm tiền. Cậu chuyên đi lang
thang bán rong đồ chơi bằng nhựa, bằng cao su cho trẻ em. Ngay từ nhỏ,
cậu bé ít nói Roman Abramovich đã tỏ ra không ham muốn học hành mà chỉ
thích kinh doanh kiếm tiền.



Roman chọn làm những thứ mà không ai nghĩ tới và không muốn làm. Chẳng
mất đồng vốn nào, Roman Abramovich đã được thầu trông coi nhà vệ sinh
công cộng trên đường phố Matxcơva và nhanh chóng cai quản, kinh doanh
thành công 15 nhà vệ sinh công cộng.



Mọi sự chỉ thay đổi vào đầu những năm 1990, khi nước Nga có những biến
động dữ dội cả về chính trị và kinh tế. Không chỉ riêng Roman
Abramovich mà rất nhiều người đột nhiên qua đêm trở thành những ông chủ
nhà máy do chính sách tư nhân hóa ào ạt các xí nghiệp quốc doanh của
Chính phủ Nga lúc bấy giờ. Mua lại các doanh nghiệp nhà nước gặp khó
khăn là một cơ hội vàng đối với những người biết thời cuộc, Abramovich
là một trong những người như vậy. Thực ra ở đông Âu và Nga có nhiều
ngàn người đã tranh thủ được cơ hội này. Kiếm được năm bảy triệu đô nhờ
việc mua lại các doanh nghiệp không phải là hiếm tuy nhiên Abramovich
là một trong những người kiếm được nhiều nhất. Vào thời điểm đó tại Nga
Nhà nước không mặn mà gì việc giữ lại các doanh nghiệp nhà nước mà
nhiều năm lỗ triền miên, họ tìm cách cổ phần hoá, tư hữu hoá càng nhanh
càng tốt để thu tiền về cho nhà nước và trông đợi các doanh nghiệp làm
ăn có lãi để có thể thu thuế từ đó.



Những người nhạy bén có thể mua được cả một nhà máy với giá rẻ bất ngờ.



Vấn đề đặt ra là: Tiền đâu để họ mua?



Các ngân hàng thương mại và các quỹ là địa chỉ lý tưởng để trình bầy
những kế hoạch cải tổ các doanh nghiệp mua lại. Nếu một kế hoạch có
triển vọng cộng thêm một số quan hệ có uy tín thì một người mua lại
doanh nghiệp dễ dàng vay được tiền, tài sản thế chấp chính là doanh
nghiệp.



Thế là, năm 1992, khi mới 25 tuổi, Roman Abramovich đã có cổ phần của
một công ty dầu mỏ nhỏ có tên là Runicom. Roman Abramovich kinh doanh
dầu mỏ từ đó và có cơ hội tiếp cận và kết thân với giới tài phiệt và
những người có thế lực. Không ít người cho rằng Roman Abramovich phải
có những đường dây hay mưu mô ghê gớm nào đó mới có thể thâm nhập nền
kinh tế nhanh và sâu như vậy.



Mới vào kinh doanh dầu mỏ, Roman Abramovich đã bị gọi ra tòa về những
nghi ngờ khuất tất trong các phi vụ kinh doanh. 55 toa tàu chở dầu theo
hợp đồng đã bị biến mất mà không có bằng chứng gì cả. Rất may giai đoạn
đó những trường hợp tương tự như vậy ở nước Nga quá nhiều, cộng với
nhiều tác động khác nữa nên vụ bị nghi ngờ trên của Roman Abramovich
không bị điều tra và xét xử đến nơi đến chốn.



Mới 26 tuổi, Roman Abramovich đã trở thành một trợ lý đắc lực và trung
thành của đại gia Boris Berezopvsky. Ông này đồng thời cũng là một ông
trùm có rất nhiều thế lực và ảnh hưởng đến chính trường nước Nga lúc
đó. Nhờ có mối quan hệ thân cận với ông trùm này mà từ một công ty cung
cấp dầu mỏ con con là Runicom, Roman Abramovich đã đến được với tập
đoàn dầu mỏ Sibneft khổng lồ. Rất nhiều người đã nói rằng Roman
Abramovich đã nhập cuộc thị trường với các đại gia một cách nhanh chóng
phi thường chính nhờ sự đỡ đầu của ông trùm đầy quyền lực này.



Roman Abramovich không thừa nhận nhưng cũng chẳng phản đối những đồn
đại đó. Ông tìm cách tự khẳng định mình, đặc biệt khi Boris Berezopvsky
đã thất thế và mất toàn bộ chỗ dựa từ phía chính phủ mới. Cho đến thời
điểm này, Abramovich đã chứng minh khá thuyết phục khả năng của mình.
Chắc chắn rằng ông đã học được không ít điều từ Berezopvsky nổi tiếng.
Ông tìm sự hậu thuẫn về chính trị bằng cách ứng cử thống đốc khu tự trị
Chukotka. Và Roman Abramovich đã thắng lớn với trên 92% số phiếu bầu
của cử tri.



Để có được thắng lợi vang dội và sự khẳng định trên chính trường của
một vùng tự trị rộng gấp 3 lần nước Anh nhưng dân số chưa đến 100.000
người, Roman Abramovich đã tỏ ra rất hào phóng. Ông đã bỏ từ tiền túi
gần 200 triệu euro để xây dựng cơ sở hạ tầng, trường học, nhà trẻ bệnh
viện, siêu thị và cả rạp chiếu bóng cho vùng Chukotka rộng lớn mà nghèo
khó. Tính ra mỗi người dân Chukotka được nhận hơn 2.000 euro từ ông
Thống đốc tỉ phú của mình.



Đam mê bóng đá



Có lẽ chẳng có mấy ai đam mê bóng đá như nhà tỉ phú Roman Abramovich.
Tên tuổi của ông được biết đến khắp nơi trên toàn thế giới không phải ở
chỗ ông là người giàu nhất nước Anh hay là tỉ phú bậc nhất của nước
Nga. Người ta biết đến và kinh ngạc về Roman Abramovich nhờ sự đam mê
bóng đá của ông.



Ai cũng biết đến việc Roman Abramovich bỏ ra trên gần ba trăm triệu
euro để mua và xây dựng lại đội bóng Chelsea có nhiều truyền thống của
thành London. Ngày nay, nói đến Chelsea là phải nói đến tên của Roman
Abramovich. Sự đầu tư có tính cách mạng quyết liệt của Roman Abramovich
tại một câu lạc bộ ngoại hạng Anh đã làm các báo chí tốn không biết bao
nhiêu giấy mực.



Không mấy khi được nghe Roman Abramovich trực tiếp nói về đội bóng
mình, nhưng người ta luôn thấy ông cùng vợ có mặt gần như tại tất cả
các trận đấu của Chelsea. Roman Abramovich luôn làm những người quan
tâm đến bóng đá và đặc biệt là bóng đá Anh phải hồi hộp theo dõi những
hành động của ông đối với đội bóng của mình. Dư luận hồi hộp theo dõi
không biết sắp tới danh thủ nào lại lọt vào tầm ngắm của Roman
Abramovich nữa đây.



Kinh doanh muốn là số 1 thì trong thể thao lại càng phải thế. Sau mùa
bóng đầu tiên chỉ xếp hạng 3, Roman Abramovich đã bỏ ra hơn 100 triệu
euro để “thay máu” đội bóng và thay cả huấn luyện viên. Roman
Abramovich bạo tay đầu tư để nhắm tới một cú đúp trong mơ: Chelsea vừa
vô địch giải ngoại hạng Anh, vừa vô địch Champion Cup.



Cho đến nay khó có thể nói rằng đầu tư của Abramovich vào bóng đá, vào
đội Chelsea là đầu tư kinh doanh hay chỉ là niềm đam mê bóng đá thuần
túy. Tuy còn rất trẻ nhưng Roman có không ít kinh nghiệm đường đời. Với
ông, sự giàu có, tiền bạc đã giúp ông làm được nhiều thứ. Không ít
người cho rằng đây là những thú chơi kỳ quái, vung tiền của các đại gia
tỉ phú ngông cuồng. Nhưng cũng có những nhà phân tích cho rằng Roman
Abramovich đã tính toán khá kỹ khi đầu tư vào bóng đá. Đó không chỉ là
thú vui thuần túy mà có khi còn gắn liền với những ý tưởng muốn tạo ra
danh tiếng. Việc giàu lên quá nhanh có thể tạo ra những hiệu ứng không
tốt trong công chúng và nhà chức trách.



Chắc hẳn Roman Abramovich đã có những nước cờ tính rất xa nhằm đánh
bóng và tạo một hình ảnh quen thuộc và thiện cảm để dễ dàng cho những
hoạt động kinh doanh sau này. Nếu đúng vậy thì quả là Roman Abramovich
đã rất thành công tuy phải tiêu tốn rất nhiều tiền. Mặc dù là người ít
nói và thận trọng với báo giới nhưng thông qua bóng đá, Roman
Abramovich đã trở thành con người quen thuộc, và thậm chí hình ảnh của
ông trở nên có thiện cảm với nhiều người. Những xoi mói về cách làm
giàu, về những nghi ngờ trong thuế hay gian lận gì đó vì thế rất có thể
đã bị chìm đi dễ dàng hơn trước những sự kiện bóng đá nóng hổi và đầy
kịch tính.



Làm nhiều tiêu nhiều



Đó chính là triết lý sống của Roman Abramovich. Trong khi người giàu
thứ hai nước Anh hiện nay là Hans Rausing nổi tiếng về sự tằn tiện,
tiết kiệm tối đa, thì Roman Abramovich ngược lại hoàn toàn. Roman
Abramovich còn rất trẻ, ông thuộc thế hệ khác. Cách kiếm tiền của ông
chẳng thể biết hết, chỉ biết là rất nhanh. Và Roman Abramovich cũng
tiêu tiền nhanh như ông kiếm được. Nếu như đầu tư vào bóng đá còn được
gọi là đam mê cuồng nhiệt của một tỉ phú là cổ động viên bóng đá, thì
việc mua sắm những thứ xa xỉ với giá trên trời bị không ít người gọi là
thú vui ngông cuồng.



Roman Abramovich đang sở hữu nhiều tài sản có một không hai. Chiếc tàu
“Pelorus” mà Roman Abramovich đặt hãng đóng tàu nghỉ cao cấp Blom+Vos
Repair thực hiện quả là một lâu đài xa hoa tráng lệ di động trên biển.
Về mức độ hiện đại và sang trọng thì con tàu dài 114 mét, rộng 20 mét
này hiện vẫn đang đứng thứ nhất thế giới. Roman Abramovich thuê hẳn
hãng “Blue Ocean Yacht” nổi tiếng chuyên tu dưỡng, chăm sóc và quản lý
tàu để ông có thể bất chợt sử dụng vào bất cứ tại thời điểm nào. Ngoài
ra, Roman Abramovich còn có 2 lâu đài di động tương tự như vậy là tàu
“Ecstasea” và “le Grand Bleu”.



Hiện nay, nhiều người đang hồi hộp theo dõi cuộc găng đua không chính
thức nhưng rất thú vị giữa 2 tỉ phú Roman Abramovich và Paul Allen. Cả
hai đại tỉ phú đều ngấm ngầm muốn mình là người có nhiều lâu đài di
động trên biển nhất và hiện đại nhất. Chiếc tàu “Pelorus” trị giá 72
triệu bảng Anh của Roman lại được đưa vào xưởng để hiện đại hóa hơn nữa
và lắp đặt bổ sung một sân bay trực thăng trên nóc. Trên biển thế nào
thì trên không cũng phải vậy. Ông chủ Roman Abramovich đã không tiếc
tiền để đặt một chiếc máy bay Boeing 767 mang tên “Tổng thống” cho
riêng mình.

23.4.07

Hoa Kỳ hỗ trợ thị trường chứng khoán Việt Nam

Hoa Kỳ hỗ trợ thị trường chứng khoán Việt Nam

n Minh Đức

Cơ quan phát triển quốc tế Hoa Kỳ (USAID) đã tài trợ 4 cán bộ ngành chứng khoán Việt Nam tham gia "Hội thảo quốc tế thường niên về phát triển thị trường chứng khoán" do Ủy ban Chứng khoán Hoa Kỳ (SEC) tổ chức.

Hội thảo này diễn ra từ ngày 16 - 26/4/2007, tại trụ sở chính của Ủy ban tại Washington, D.C.

Bốn cán bộ trên thuộc Ủy ban Chứng khoán Nhà nước Việt Nam (SSC), Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM, Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội, sẽ cùng các cán bộ từ các thị trường chứng khoán mới nổi khác tham gia vào các buổi thuyết trình và thảo luận về việc phát triển, vận hành và điều tiết thị trường chứng khoán.

Sau hội thảo, các đại biểu sẽ tham gia chương trình tham quan thực tập tại các tổ chức tự quản, sàn giao dịch chứng khoán, trung tâm môi giới chứng khoán và các ngân hàng đầu tư ở Chicago.

Chương trình này là cơ hội cho các cán bộ thị trường chứng khoán Việt Nam học hỏi kinh nghiệm từ các chuyên gia Hoa Kỳ và nhiều nước khác. Đây cũng là một phần trong chương trình trợ giúp kỹ thuật của Hoa Kỳ nhằm xây dựng một thị trường chứng khoán hiện đại và lành mạnh ở Việt Nam.

20.4.07

PHÂN TÍCH KỸ THUẬT!

- CÁC KIẾN THỨC VỀ
+ KỸ THUẬT PHÂN TÍCH
+ Ý NGHĨA CÁC CHỈ SỐ VÀ ỨNG DỤNG
+ PHẦN MỀM LIÊN QUAN

KIẾN THỨC CHUNG

- VỀ THỊ TRƯƠNG, CƠ CHẾ, CHÍNH SÁCH...
Vai trò của các chuyên gia và nhà tạo lập thị trường
Khi đề cập đến các hình thức tổ chức thị trường không thể không nhắc đến vai trò của các chuyên gia và các nhà tạo tập thị trường trong việc tạo lập sự công bằng, hiệu quả và trật tự trên mỗi thị trường này.
Trải qua hàng trăm năm lịch sử hình thành, thị trường chứng khoán (TTCK) đến nay vẫn không ngừng phát triển và ngày càng khẳng định là một kênh huy động vốn hữu hiệu của nền kinh tế. Cùng với những tiến bộ của khoa học kỹ thuật và yêu cầu về sự đa dạng trong các hoạt động đầu tư, đến nay nhiều loại thị trường đã ra đời với các hình thức tổ chức thị trường từ đơn giản (thị trường chứng khoán phi tập trung) đến hiện đại và hết sức chặt chẽ (thị trường chứng khoán tập trung). Khi đề cập đến các hình thức tổ chức thị trường nói trên không thể không nhắc đến vai trò của các chuyên gia và các nhà tạo tập thị trường trong việc tạo lập sự công bằng, hiệu quả và trật tự trên mỗi thị trường này.